Tết trùng cửu là ngày tết cổ xưa của nước ta diễn ra vào ngày 9/9 âm lịch, ngày tết lặp lại 2 số 9 để chỉ ước mong trường thọ của mỗi người. Ngày nay ngày tết ngày ít được mọi người biết đến nhất là nguồn gốc của ngày Tết trùng cửu, những nét đẹp văn hóa trong đó, những điều này đang chờ chúng ta đến tìm hiểu, khai phá.
Mùa đông đến cây cối trông ủ rũ và mọi người sẽ không thích đi chơi xa vì vậy mà ngày Tết trùng cửu là cơ hội cuối cùng để mọi người có thể đi chơi thả ga trước khi thời tiết bắt đầu mùa đông.
Đời nhà Hán có một câu truyện về tết trùng cửu như sau: một người tên là Hoàng Cảnh người ở huyện Nhữ Nam, sống vào đời Hậu Hán năm 25 – 250, ông theo học đạo tiên với Phí Trường Phòng. Một hôm sư thầy bảo ông ” ngày 9/9 này ta xem quẻ thấy nhà con sẽ gặp phải nạn đổ máu vì vậy vào ngày đó con hãy cho mời cả nhà của con lên núi lánh nạn, mọi người hãy mang theo túi đỏ chứa hột thù du, uống rượu hoa cúc trước khi lên đường ở núi một ngày khi trở về sẽ gặp dữ hóa lành. Hoàn Cảnh nghe lời thầy, đem người nhà lên núi quả nhiên sau khi về thấy chó gà nhà đã bị dịch mà chết. Bởi sự tích này mà mọi người dân thường chọn ngày 9/9 âm lịch lên núi thắp nhang. Ngày sau thì các vị tao nhận mặc khách lên núi thưởng cảnh, uống rượu ngâm thơ.
Trong sách Phong Thổ Ký ghi rằng vào cuối đời nhà Hạ năm 2205 – 1818, trong nước có vua Kiệt tàn bạo sát hại dân chúng, Thượng đế vì vậy mà trừng phạt ông bằng cách giáng thiên tai nước xuống nhấn chìm kinh thành khiến nhiều người dân phải chết đuối. Nạn thủy tai này diễn ra vào ngày 9/9 âm lịch. Do đó vào ngày này mỗi năm, mọi người dân vẫn luôn lo sợ thiên tai một lần nữa sẽ diễn ra nên rủ nhau lên núi cao lánh nạn. Tục từ đó dần trở thành lệ.
Thời Hán Văn Đế năm 176 – 156, nhà vua sai người dựng một tượng đài cao 30 trượng để cùng với phi tần ngắm cảnh xem tinh tượng trong cung vào ngày mồng 9/9 mỗi năm. Sau nhà Đường, ngày 9/9 được coi là ngày lễ trùng cửu, trong ngày này các văn nhân trong triều thi nhau lên núi làm thơ vịnh cảnh.
Tết trùng cửu mọi người rủ nhau lên núi ngắm phong cảnh, hít thở không khí núi rừng, thời xưa mọi người coi ngày này là ngày gặp nạn nên phải lên núi cao. Việc ăn bánh cao cũng là để nhắc nhở bản thân luôn ghi nhớ ngày này. Thời Tấn có một vị ẩn sĩ tên là Đào Minh Uyên thích uống rượu làm thơ, yêu hoa cúc, các văn nhân trong triều bắt trước ông cũng vào ngày này làm thơ. Đào Minh Uyên làm quan dưới thời Tấn – Tống, cảm nhận được sự hủ bại của quan trường, ông xin cáo lão về quê nhà ở Giang Tây. Ngày ngày ông chỉ trồng hoa cúc, làm thơ, đặc biệt ông có một cái tật là chỉ có thể làm thơ khi uống rượu say mà thôi. Hôm đó vào ngày trùng dương, ông thiếu tiền uống rượu nên chỉ có thể ra vườn ngắm hoa, ông ngắt mấy bông hoa cúc cho vào miệng nhai cho đỡ buồn, đột nhiên gia nhân nhà ông vào bẩm nói có một người nhận là thứ sử Giang Châu Vương Hoằng mang đến biếu tặng một vò rượu quý.
Đào Minh Uyên nhận rượu lấy trong lòng thầm cảm thấy vui mừng vì đúng lúc đang không có rượu uống, ông uống đến khi say xỉn thì thôi, sáng ra ngồi dậy tự nhiên thấy trong người khỏe khoắn lạ thường, nhờ đó mọi người biết được tác dụng của hoa cúc. Ngày nay mọi người thường cho hoa cúc vào rượu vì thấy nó có thể trị bệnh tốt là vì thế. Danh y đời nhà Minh tên Lý Thời Trân nói rằng hoa cúc trị được chứng bệnh đau đầu, đau mắt, chóng mặt, giải phong hàn, rượu hoa cúc mà trị trúng gió, tiêu gan giải độc vô cùng hiệu nghiệm. Vì vậy rượu hoa cúc còn gọi là rượu trường thọ với ý nghĩa người uống rượu này sẽ tiêu trừ mọi bệnh tất và sống lâu trăm tuổi.
Cài lá châu du là một phong tục có từ thời Đường, mọi người nhất là trẻ em và phụ nữ thường giắt lá vào người hay cho vào trong những túi vải để trừ tà. Trái cây châu du là một vị thuốc vô cùng tốt có thể khử hàn độc, ôn nhiệt, nếu loại trái cây này được trồng ở vùng đất Ngô Châu Du thì quả càng xanh tươi màu mỡ hơn. Cây này còn có tên gọi là cây dầu Việt, cây thân nhỏ và cao, chiều dài hơn trượng, lá nhìn giống chiếc lông chim, mùa hè cây nở hoa trắng xóa, quả này màu vàng khi chín chuyển sang màu tím.